Hạt Đậu Miêu

Thứ năm, 30/06/2016, 08:40 GMT+7

HAT_DAU_MIEN

Tên khác: Bổ Cốt Chỉ, Phá Cố Chỉ

Tên khoa học: Psoralea corylifolia L., họ Đậu (Fabaceae).

Mô tả: Quả hình thận, hơi dẹt, dài 3 – 5 mm, rộng 2 – 4 mm, dầy khoảng 1,5 mm. Mặt ngoài màu đen, nâu đen hoặc nâu xám, có vết nhăn và vân hình mạng lưới nhỏ. Đỉnh tròn, tù, có núm nhỏ nhô lên; một bên mặt hơi lõm vào, có vết cuống quả ở một đầu. Vỏ quả mỏng, khó tách rời hạt. Hạt có hai lá mầm, cây mầm trắng hay hơi vàng, có chất dầu. Quả cứng chắc, mùi thơm nhẹ, vị hơi đắng.

Bộ phận dùng: Cây thuốc quý Đậu Miêu, hạt đã phơi hay sấy khô của cây Phá Cố Chỉ (Psoralea corylifolia L.), họ Đậu (Fabaceae).

Thành phần hoá học: Dầu béo, coumarin: Psoral, Isopsoralin, bavachin, bavachinin, Isobavachin, bavachalcone, Isobavachalcone, bakuchiol, raffinose.

Công dụng: Bổ mệnh môn hoả, chỉ tả.

     -   Thuốc bổ cho người già yếu, đau lưng, phụ nữ kinh nguyệt không đều, khí hư.

     -   Hạt ngâm rượu dùng ngoài chữa bệnh bạch biến (da bị trắng từng chỗ).

     -   Các nước châu Âu thường dùng để chiết xuất coumarin làm thuốc trị các bệnh ngoài da như nấm tóc.

Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 6 – 15g, dùng dạng thuốc sắc, bột, viên.

Bài thuốc: Âm hư hỏa động, tiểu tiện ra máu, đại tiện táo bón, viêm đường tiết niệu không nên dùng.

     -   Trị tiêu chảy kéo dài do dương hư (thường tiêu chảy vào lúc sáng sớm nên gọi là Ngũ canh tả): dùng các bài:

       +   Tứ thần hoàn (chứng trị chuẩn thằng) gồm: Bổ Cốt Chi 160g, Ngũ Vị Tử 80g, Nhục Đậu Khấu (sao) 80g, Ngô Thù Du 40g, Sinh Khương 320g, Đại Táo 240g, Khương Táo sắc lấy nước, các vị khác tán bột mịn trộn với nước sắc hồ làm hoàn, mỗi lần uống 8 – 16g với nước muối hoặc nước sôi ấm trước lúc ngủ.

       +   Bổ Cốt Chi, Nhục Đầu Khấu lượng bằng nhau, Khương, Táo sắc trộn hồ làm hoàn, uống mỗi lần 12g, ngày 2 lần.

     -   Trị liệt dương, đái nhiều, đái dầm: Bổ cốt chi phối hợp với Ích trí nhân, Thỏ ty tử, dùng bài:

       +   Bổ Cốt Chi Hoàn: Bổ Cốt Chi, Thỏ Ty Tử, Hồ Đào Nhục, mỗi thứ 12g, ngày 2 lần với nước muối nhạt. Trị đái dầm có thể dùng độc vị Bổ Cốt Chi tán bột, mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần.

       +   Bổ ốt Chi (ngâm rượu sao) 100g, Tiểu Hồi Sao 100g, tán nhỏ trộn đều làm thành viên, mỗi tối dùng với nước ấm uống: Từ 3 – 9 tuổi:1,5g; từ 10 – 12 tuổi:2,5g. Trị 6 ca đều khỏi (Tân trung y 1976,1:57).

     -   Trị ho lao (Đỗ tất Lợi): Bổ Cốt Chi 400g tẩm rượu 1 đêm phơi khô, lấy một nắm vừng trộn lẫn thuốc rang lên cho đến khi vùng hết nổ, lấy Phá cố chỉ tán bột làm viên bằng hạt ngô, ngày uống 30 viên, chia 2 – 3 lần.

     -   Trị bệnh bạc đới, sói tóc: dùng Bổ Cốt Chi 40g ngâm với 100ml cồn 75%, 5 – 7 ngày bôi lên vùng bệnh và chích bắp dịch tiêm Bổ Cốt Chi ngày 1 lần 5 ml, gia chiếu tia tử ngoại trị bạch điến 49 ca, tỷ lệ kết quả 75,5%. Đối với sói tóc, chỉ dùng tiêm và chiếu tia tử ngoại trị 45 ca có kết quả 84,4% ( Tờ thông tin Trung thảo dược 1972,1:41).

     -   Trị tử cung xuất huyết: Bổ Cốt Chi và Xích Thạch Chỉ lượng bằng nhau chế thành viên cầm máu . Trị 326 ca, có kết quả trên 90% ( Tạp chí Thiên tân Y dược 1973,1:36).

     -   Trị chứng bạch cầu giảm: dùng bột thuốc luyện mật làm hoàn, mỗi hoàn nặng 6g, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 – 3 hoàn hoặc 3g bột, một liệu trình 4 tuần. Trị 19 ca, 14 ca khỏi, 4 ca tiến bộ ( Tân y học 1975,10:497).

Tag :